Thứ Bẩy, 12/10/2024 08:27:05 GMT+7
Lượt xem: 1665

Tin đăng lúc 13-09-2024

Kỳ 2: Ngành Than: Nỗ lực bảo vệ môi trường - hành động thiết thực, góp phần xây dựng chế độ CNXH ở nước ta

Quyết tâm “Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế” - đây là quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Thực tế thời gian qua, trong phát triển kinh tế, nhất là ngành khai thác than, việc xử lý các vấn đề về ô nhiễm môi trường đã và đang được giải quyết kiên quyết.
Kỳ 2: Ngành Than: Nỗ lực bảo vệ môi trường - hành động thiết thực, góp phần xây dựng chế độ CNXH ở nước ta
Ngành than luôn đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Ảnh minh họa, nguồn internet

Sản xuất than: tác động môi trường, nhưng đóng góp tích cực đảm bảo an ninh năng lượng nước nhà

 

Để nói về công tác BVMT của TKV, trước hết chúng ta hãy cùng nhìn nhận những đặc thù cơ bản trong sản xuất than, một loại hình sản xuất có những thách thức nhất định đối với môi trường, nhưng lại đóng vai trò cực kỳ quan trọng đối với nhiệm vụ đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, nhân tố chủ chốt mở đường cho sự phát triển kinh tế - xã hội lâu dài của đất nước. Điều đó cho thấy cán bộ, công nhân viên, người lao động trong ngành than đang mang tinh thần kiên định mục tiêu CNXH, đã và đang giải quyết thành công mối quan hệ đối lập giữa hai vấn đề “phát triển” và “môi trường” trong nhiệm vụ sản xuất của ngành.

 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Than là vàng đen của Tổ quốc, là nguồn năng lượng quý báu cho phát triển công nghiệp hiện đại”. Lãnh tụ Lênin cũng từng khẳng định: “Than là bánh mỳ của công nghiệp”. Hiệp hội Than Thế giới WCA đã nêu tuyên ngôn: “Than là chiếc cầu bắc tới tương lai của con người”. Những nhận định đúng đắn và sáng suốt trên đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của than đối với sản xuất công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung.

 

 

Cảng than Cửa Ông, Ảnh Dương Phượng Đại

 

Theo nghiên cứu năm 2021 của Viện Khoa học Địa chất và Tài nguyên Thiên nhiên (BGR) và Statistical Review of World Energy thì tổng trữ lượng than trên thế giới tính đến cuối năm 2020 là 1.074.108 tỷ tấn. Theo TKV thì trữ lượng than tại Việt Nam rất lớn, khoảng 50 tỷ tấn, trong đó trữ lượng có khả năng khai thác là 3,7 tỷ tấn. Với trữ lượng lớn như vậy nên ngành Than vẫn sẽ mãi là ngành kinh kế trọng điểm, luôn giữ vai trò chủ đạo và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu của nền kinh tế nước ta. Đó là ưu điểm lớn nhất của ngành Than. Bên cạnh những ưu điểm vượt trội đó, việc khai thác than cũng có một số nhược điểm là phần nào tác động đến môi trường như: Phát sinh bụi, chất thải rắn, ô nhiễm nguồn nước, không khí... Tuy nhiên, nếu xử lý đúng cách sẽ không gây tác động xấu đến môi trường như nhiều người thường nghĩ.

 

Trong bài viết của mình, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập rằng, với bất kỳ phương án phát triển kinh tế nào cũng cần phải giải quyết hài hòa, xuyên suốt mối quan hệ giữa “môi trường” và “phát triển”. Môi trường và phát triển, suy cho cùng là hai mặt của một vấn đề, chúng ta không vì “sợ hãi” các tác động xấu đến môi trường mà không dám phát triển, nhưng cũng tuyệt đối không chủ quan và đánh đổi môi trường để phát triển bằng mọi giá. Đối chiếu với tình hình thực tế hiện nay, chúng ta nhận thấy ngành Than hiện đang là mối quan tâm của Đảng, Nhà nước, của tỉnh Quảng Ninh về vấn đề phát thải ô nhiễm môi trường, tuy nhiên sẽ không phải vì như vậy mà chúng ta thu hẹp kế hoạch sản xuất than.

 

 

Nhà máy xử lý chất thải CN nguy hại

 

 

Trạm xử lý nước thải mỏ Núi Nhện

 

Thực tế đã khẳng định, ngành Than vẫn luôn đóng góp nhiều cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Đặc biệt trong bối cảnh phát triển kinh tế mạnh mẽ như hiện nay thì song hành với đó là phát triển công nghiệp, nên lượng điện tiêu thụ ngày càng tăng cao hơn. Để đáp ứng nhu cầu điện phục vụ đời sống sinh hoạt người dân tiêu dùng và sản xuất kinh doanh, ngành Điện đang căng mình kêu gọi người dân dùng điện tiết kiệm, đồng thời thúc đẩy các nhà máy điện đảm bảo an toàn, hoạt động liên tục… để đảm bảo phát nguồn điện ổn định thì mới đủ cung cấp cho sản xuất kinh doanh và các hoạt động sinh hoạt của nhân dân.

 

 

Kè đập, taluy bê tông - đá kiên cố chống sạt lở

 

Cùng với đó, ngành Than cũng phải có hành động thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất than an toàn, liên tục để đảm bảo nguồn cung phục vụ cho các nhà máy nhiệt điện sản xuất điện. Như vậy, ngành Than không chỉ góp phần vào đảm bảo an ninh năng lượng mà còn tạo việc làm, thu nhập và đời sống cho hàng vạn lao động, đồng thời đóng góp tích cực vào ngân sách nhà nước. Ví dụ, năm 2023 doanh thu toàn Tập đoàn ước đạt 170 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách Nhà nước 29 nghìn tỷ đồng, đây là con số đóng góp không hề nhỏ vào tăng trưởng GDP chung của cả nước. Do đó, để đảm bảo song hành mục đích chính trị và bảo vệ môi trường, chúng ta phải tiếp tục khai thác có hiệu quả nguồn năng lượng hóa thạch ưu việt này, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phải quan tâm đúng mức, giải quyết tối ưu bài toán môi trường mà ngành Than đang đặt ra. Theo đó, TKV đã và đang tích cực giải quyết bài toán môi trường trong việc sản xuất than như thế nào? Câu trả lời sẽ có trong phần tiếp theo của bài viết này.

 

Giải pháp môi trường của ngành Than: góp những viên gạch để xây dựng thành trì CNXH ở nước ta

 

Để thực hiện tốt công tác BVMT, TKV đã tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ cả về “xây” và “chống”. Theo đó, TKV đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các đơn vị trực thuộc thực hiện các giải pháp song hành giữa sản xuất gắn với BVMT đáp ứng các yêu cầu thực tiễn.

 

 

Thực hiện tiêu chí mỏ xanh, mỏ hiện đại, mỏ sản lượng cao. Ảnh minh họa, nguồn internet

 

Theo thông tin từ Ban Môi trường TKV, giai đoạn từ năm 2020 đến nay TKV đã ban hành hàng trăm văn bản chỉ đạo về công tác BVMT. Đến nay các đơn vị sản xuất than đều đã đầu tư công nghệ môi trường hiện đại và được khoác lên mình diện mạo xanh, sạch, đẹp. Ngăn chặn, kiểm soát các nguồn chất thải gây ô nhiễm và phòng ngừa các sự cố môi trường; khai thác hiệu quả tài nguyên than, nâng cao tỷ trọng tái chế, tái sử dụng các loại phế liệu, sản phẩm phụ và chất thải, hướng đến mục tiêu xây dựng, phát triển ngành Than theo hướng bền vững, thân thiện môi trường.

 

Vận hành hiệu quả các công trình bảo vệ môi trường hiện có

 

Trước đây, các hoạt động khai thác than ở Quảng Ninh đã gây ra nhiều tác động xấu đến môi trường. Biểu hiện rõ nhất là việc tác động đến cảnh quan môi trường; tích tụ hoặc phát tán chất thải, bụi; làm ảnh hưởng đến việc sử dụng nước, ô nhiễm nguồn nước, tiềm ẩn nguy cơ về dòng thải axit từ các mỏ... Những hoạt động ấy đang phá vỡ cân bằng sinh thái được hình thành từ hàng triệu năm trước, gây ô nhiễm môi trường nặng nề, trở thành vấn đề cấp bách mang tính chính trị và xã hội sâu sắc. Xuất phát từ nhiệm vụ cấp bách trong vấn đề BVMT, năm 2009 TKV đã thành lập Công ty TNHH MTV Môi trường - TKV, là đơn vị chuyên trách về công tác môi trường của ngành Than.

 

TKV đã giao Công ty TNHH MTV Môi trường - TKV đầu tư xây dựng và quản lý vận hành 45 trạm xử lý nước thải mỏ với tổng công suất 33.475m3/h, tương ứng 135 triệu m3/năm, đủ năng lực để xử lý lượng nước thải phát sinh của tất cả các đơn vị khai thác than trong Tập đoàn, đảm bảo quy chuẩn xả thải ra môi trường. Các trạm xử lý nước thải mỏ đã được lắp đặt hệ thống quan trắc tự động các thông số: lưu lượng, nhiệt độ, pH, COD, TSS, Fe, Mn và truyền dữ liệu về Sở Tài nguyên và Môi trường Quảng Ninh theo dõi, giám sát.

 

Đối với nước thải từ các nhà máy điện, xi măng, hóa chất sau khi xử lý cơ bản được tái sử dụng cho sản xuất (chống bụi, vệ sinh công nghiệp,..); nước thải các mỏ than sau xử lý một phần được tái sử dụng cho sản xuất (chống bụi, vệ sinh công nghiệp, công nhân tắm giặt), lượng còn lại xả ra môi trường. Bùn từ quá trình xử lý là chất thải thông thường nên được vận chuyển đổ tại các bãi thải tro xỉ, đất đá của mỏ.

 

 

Ngành than đầu tư công nghệ hiện đại trong khai thác hầm lò đã làm giảm tác động đến môi trường

 

Năm 2013, TKV đã đầu tư gần 200 tỷ đồng, giao Công ty TNHH MTV Môi trường - TKV xây dựng Nhà máy Xử lý chất thải công nghiệp nguy hại, với công suất 6.900 tấn/năm tại xã Dương Huy, Cẩm Phả, Quảng Ninh. Nhà máy bắt đầu hoạt động từ năm 2014, từ đó đến nay hàng năm xử lý hàng nghìn tấn chất thải nguy hại của các đơn vị thuộc TKV và một số đơn vị ngoài TKV trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Các loại chất thải (dầu mỡ thải, pin, ắc quy thải, bộ lọc dầu, linh kiện thiết bị điện tử thải, giẻ lau dính dầu mỡ, phế thải chứa amiang, vỏ thùng phuy dính dầu) được các chủ nguồn thải thu gom lưu giữ trước khi thu gom về Nhà máy để xử lý theo quy định của pháp luật. Sản phẩm dầu thải sau xử lý được cấp cho Công ty Cổ phần Chế tạo máy - Vinacomin để đốt lò. Còn ắc quy, thép cung cấp cho các doanh nghiệp khác.

 

Công ty TNHH MTV Môi trường - TKV đang quản lý, duy tu thường xuyên 32km đường vận tải liên mỏ, hàng ngày sử dụng xe xitec để phun nước dập bụi. Hàng năm sửa chữa, xây dựng hàng chục kilomet bờ kè, đê, đập chống sạt lở đất, đá… hiện Công ty cũng đang quản lý vận hành 2 tuyến băng tải than Lép Mỹ và Khe Chàm, năm 2024 sẽ hoàn thành băng tải thứ 3 tại Mạo Khê, Đông Triều. Việc sử dụng băng tải để vận chuyển than đã thay thế việc vận chuyển than bằng ô tô, vì thế đã làm hạn chế tối đa tiếng ồn và bụi bay ra môi trường.

 

 

Băng tải vận chuyển than thay thế vận chuyển bằng ô tô

 

Ngoài các tuyến băng tải do Công ty TNHH MTV Môi trường - TKV quản lý vận hành, nhiều đơn vị thuộc TKV cũng đã đầu tư xây lắp các tuyến băng tải để thay thế hoàn toàn việc vận chuyển than bằng ô tô ngoài mỏ. Điển hình như tuyến băng tải than Khe Ngát - cảng Điền Công (Uông Bí) với chiều dài gần 8km, tổng mức đầu tư 1.291 tỷ đồng, công suất 6 triệu tấn than/năm. Việc đưa tuyến băng tải vào sử dụng đã giảm được hoạt động thường xuyên của hơn 300 ô tô, hơn 500 toa tàu sắt vận chuyển than hàng tháng. Ngoài giá trị về mặt kinh tế, công trình đó còn mang lại hiệu quả lớn trong việc ổn định an sinh xã hội, an ninh trật tự, đảm bảo an toàn giao thông và đặc biệt là giải quyết nạn ô nhiễm môi trường vùng Uông Bí.

 

Song song với các giải pháp môi trường hiệu quả để xử lý nước thải, bụi, chất thải rắn, dầu mỡ… trong quá trình sản xuất, TKV còn duy trì một hoạt động có ý nghĩa vô cùng tích cực trong công tác BVMT đó là trồng cây xanh. Nhiều năm qua, ngành Than đã đồng hành cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân nỗ lực chung tay kiến tạo nên một “lá phổi xanh” mạnh khỏe lâu dài cho Việt Nam hôm nay và mai sau. Công ty TNHH MTV Môi trường - TKV đã trồng hàng nghìn hecta rừng cây phủ xanh các bãi thải. Chỉ tính từ năm 2016 đến năm 2020, giai đoạn có “Đề án đảm bảo môi trường cấp bách ngành Than”, TKV đã chỉ đạo trồng trên 1.825ha cây xanh trên các bãi thải với mật độ tới 5.000 cây/ha để đẩy nhanh thời gian phủ xanh.

 

Có thể thấy rõ sau nhiều năm, những diện tích rừng cây trồng trên các bãi thải đã phát huy tác dụng giữ đất đá, hạn chế xói mòn khi trời mưa và giữ bụi khi có gió. Hiện nay, đi dọc Quốc lộ 18 quan sát chúng ta không còn nhận ra những bãi thải trơ trọi như trước đây mà thay vào đó là màu xanh mát mắt của những cánh rừng tươi tốt. Đó là minh chứng cho những nỗ lực của ngành than trong việc trồng cây hoàn nguyên, phục hồi môi trường sau khai thác than.

 

Cùng với đó thì TKV cũng yêu cầu các đơn vị thành viên đổ thải theo quy định và xây dựng đê, kè, đập chống trôi đất, đá. Gần đây, TKV đã đầu tư xây dựng bổ sung 5 đập và 1.200m đê chắn đất, đá tại chân các bãi thải, xây dựng 12 hồ lắng nước đầu nguồn các suối, thường xuyên nạo vét các suối thoát nước, qua đó đã làm giảm đáng kể đất, đá bồi lấp, ngăn ngừa tình trạng ngập lụt tại các khu dân cư. Các đơn vị thành viên khác thuộc TKV cũng đã đầu tư nhiều tỷ đồng cho công tác BVMT trong danh giới hoạt động sản xuất của mình. Chỉ tính riêng từ 2016-2020 ngành Than đã chi 4,8 nghìn tỷ đồng cho BVMT.

 

Nếu như trước đây tại các đơn vị sàng tuyển, toàn bộ nước sau tuyển rửa được bơm trực tiếp ra hồ lắng, có nguy cơ ảnh hưởng lớn đến nguồn đất, nước và không khí thì nay việc đầu tư công nghệ mới, hướng tới sản xuất thân thiện với môi trường đã khắc phục được những nhược điểm trên. Điển hình như Công ty Tuyển than Cửa Ông, năm 2018 đã đầu tư hệ thống lọc, ép than bùn, đó không chỉ giải được bài toán BVMT mà còn tiết kiệm tài nguyên. Hệ thống này đã khắc phục hạn chế trong khâu xử lý bùn nước bằng cách lắng đọng tự nhiên. Không chỉ tận thu tối đa sản phẩm có trong bùn mà công nghệ này còn tránh thẩm thấu nước thải ra môi trường, tránh bay hơi nước, có thể sử dụng triệt để nước tuần hoàn và giảm thiểu tác động xấu đến môi trường. Nước thải được đưa ra hồ đất để lắng đọng tự nhiên, nước tràn sẽ được thu hồi và tái phục vụ sản xuất, nên không còn nước thải ra môi trường.

 

 

Xe xitec phun nước dập bụi đường liên mỏ, kết hợp tưới chăm sóc cây trồng BVMT

 

Một thực tế ở vùng khai thác than trước đây, bụi thường xuất hiện trên nhiều tuyến đường và các khu dân cư, chỉ dùng xe ôtô để tưới nước hoặc ống dẫn nước tưới dập bụi nên hiệu quả không cao, tốn nhiều nước, thời gian và nhân lực. Từ năm 2018 đến nay, TKV đã yêu cầu các đơn vị đầu tư lắp đặt hệ thống máy phun sương dập bụi bằng quạt cao áp tại các khu vực kho bãi chế biến, sàng tuyển than, bến cảng, bãi thải, khu vực gần dân cư và trên các tuyến vận tải. Hệ thống đó có bán kính xoay 180 độ, phun xa, dập được lượng lớn bụi. Đến nay, các đơn vị thuộc TKV đã đầu tư gần 200 máy phun sương dập bụi bằng quạt cao áp tại các vị trí trọng yếu, có công suất từ 30kW đến 75kW, các quạt đó thường được lắp đặt trên cao từ 10-15 mét, có bán kính phun dập bụi lớn từ 60-150m. Các đơn vị thành viên của TKV cũng đầu tư nhiều xe phun nước hiện đại nhập từ nước ngoài như Mỹ, các xe đó có thể phun nước tứ phía, lên cao và xa tới 30m, nên đã làm giảm đáng kể lượng bụi phát tán ra môi trường trong quá trình sản xuất. Hơn nữa, để hạn chế bụi và tiếng ồn từ các hoạt động sản xuất, bốc xúc, vận chuyển đất đá, các đơn vị đã đầu tư nhiều công trình giảm thiểu bụi, tiếng ồn tại nơi sản xuất cũng như các khu vực liên quan. TKV đã hoàn thành 11 công trình giảm thiểu bụi, ồn, bằng 133% khối lượng theo kế hoạch đề ra.

 

 

Máy phun sương dập bụi quạt cao áp

 

 

Xe phun sương dập bụi hiện đại của Mỹ được nhiều công ty ngành than sử dụng

 

TKV cũng đầu tư mở rộng, nâng công suất 5 trạm xử lý nước thải mỏ, kết hợp lắp đặt hệ thống quan trắc môi trường tự động tại Trạm +25 Núi Nhện; Trạm -97,5 Mông Dương; Trạm +131 Đồng Vông; Trạm Cọc Sáu và trạm 1.200m3 Mạo Khê, điều đó đã đáp ứng yêu cầu sản xuất gắn với BVMT. Đến nay, TKV có 57 hệ thống quan trắc môi trường tự động, phục vụ kiểm soát lượng nước thải, khí thải ra môi trường. Ngoài ra, TKV đã xây dựng Trung tâm chế biến và kho than tập trung vùng Hòn Gai tại Hà Khánh - Hạ Long hoạt động từ tháng 4/2019 để thay thế và chấm dứt hoạt động Nhà máy sàng tuyển than Nam Cầu Trắng từ ngày 31/12/2018, đó thực sự là quyết tâm rất lớn của TKV với mục tiêu BVMT.

 

Đến nay, tất cả các đơn vị thuộc TKV đều được đầu tư xây dựng hệ thống công trình thu gom và xử lý nước thải đảm bảo đạt QCVN 40:2011/BTNMT đối với nước thải công nghiệp và Quy chuẩn QCVN 14:2008/BTNMT đối với nước thải sinh hoạt trước khi thải ra môi trường. Nước thải sau khi xử lý đáp ứng quy chuẩn được tái sử dụng một phần quay ngược lại quy trình sản xuất.

 

Tuyên truyền nâng cao nhận thức, thực hiện các giải pháp môi trường mới

 

TKV phải đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng về tầm quan trọng của môi trường sinh thái, để CBCNV ngành Than nhận thức được một cách đầy đủ, tự giác về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Thực hiện đầy đủ Luật BVMT.

 

TKV và các đơn vị trực thuộc vẫn phải tiếp tục nỗ lực tìm kiếm các giải pháp mới để BVMT. Ví dụ như: TKV đang cùng với tỉnh Quảng Ninh nghiên cứu phương án đầu tư thu gom triệt để lượng nước thải sau xử lý đạt loại B như hiện nay để xử lý thêm bước nữa đảm bảo nước loại A phục vụ cho sinh hoạt của nhân dân.

 

Áp dụng tiêu chí “Mỏ xanh, mỏ hiện đại, mỏ sản lượng cao” và thực hiện mục tiêu “Đưa công viên vào trong mỏ, nhà máy”, đó là điều kiện để TKV hướng tới phát triển bền vững, góp phần hiện thực hóa quyết tâm của tỉnh Quảng Ninh trong việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ "nâu" sang "xanh".

 

Tiếp tục đầu tư công nghệ hiện đại để tăng năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế. Đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm giảm sức người và giảm thiểu những tổn hại đến môi trường. Đổi mới công nghệ bằng việc: Chuyển giao công nghệ và tự tiếp thu công nghệ hiện đại có hàm lượng chất xám cao và công nghệ sạch.

 

 

Tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm các đơn vị vi phạm trong công tác BVMT. Kiểm soát, ngăn chặn các nguồn thải gây ô nhiễm và phòng ngừa các sự cố môi trường; sử dụng hiệu quả tránh lãng phí nguồn tài nguyên than, nâng cao tỷ trọng tái chế, tái sử dụng các loại phế liệu, sản phẩm phụ, chất thải, nguồn nước hướng tới phát triển bền vững, thân thiện môi trường.

 

Phải khẳng định, tất cả vì mục tiêu phát triển bền vững nên trong những năm gần đây, TKV đã đầu tư bài bản hệ thống các giải pháp về môi trường trong lĩnh vực sản xuất than. Kết quả cho thấy, đã thay đổi diện mạo rõ nét về việc sản xuất đảm bảo môi trường xanh, sạch. Đây là những nỗ lực rất đáng ghi nhận của TKV trong suốt nhiều năm qua. Vừa phải tập trung khai thác than để phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, vừa phải chú trọng BVMT để hướng tới sự phát triển bền vững vì hạnh phúc của nhân dân, trọng trách được đặt lên vai của ngành than là rất lớn, đòi hỏi quá trình thử thách lâu dài, bền bỉ và nhiều gian khó.

 

Phát huy truyền thống “Kỷ luật và đồng tâm” ngành Than luôn bản lĩnh, kiên cường, năng động, sáng tạo. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, đúng đắn, kịp thời của Đảng ủy và Ban Lãnh đạo, toàn thể CBCNV của Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam luôn đoàn kết, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho, góp những viên gạch nhỏ xây dựng nên thành trì CNXH của nước ta.

 

Tiếp kỳ 3 (kỳ cuối): Cán bộ, đảng viên ngành Than: Sản xuất song hành với bảo vệ môi trường, tất cả vì nhân dân.

 

ThS. Lê Văn Thuấn - Đảng bộ Công ty Môi trường - TKV

 

Bài viết tham dự Giải báo chí về xây dựng Đảng (Giải Búa Liềm Vàng) tỉnh Quảng Ninh lần thứ V - Năm 2024


| Mã Khác

Ý kiến bạn đọc :

<>

Quảng cáo

Về đầu trang